Lexus ES250 1990, thuộc dòng Camry lên đời
Tên Camry được giới thiệu đầu tiên vào năm 1980 trên chiếc Toyota Celica Camry, còn cái tên Camry riêng biệt được đưa ra vào năm 1982 dành cho model 1983. Chiếc Camry chủ yếu được sản xuất dưới dạng xe sedan 4 cửa, nhưng đôi khi cũng có mẫu hatchback 5 cửa, wagon thùng dài và thể thao 2 cửa. Một phân nhánh của Camry là chiếc Camry Solara, được bán dưới hai mẫu: 2 cửa và mui xếp. Chiếc Camry đã trãi qua những giai đoạn biến đổi quan trọng trong thiết kế và nâng cấp vào các năm 1987, 1992, 1997 và 2002.
Lexus ES300 1996 là đời cuối cùng, nó bắt đầu thay thế ES250 vào năm 1992
Các mẫu Camry thế hệ thứ hai và thứ ba cũng được đổi tên (re-badge) thành Holden Apollo khi bán tại Úc, song song với những chiếc Toyota tương đương. Hiệu xe Holden thì không được thành công lắm, mặc dù chúng được làm từ cùng một xưởng với xe Toyota.
Từ năm 2000, hãng Daihatsu bán ra chiếc Altis được coi như anh em sinh đôi với Camry.
Camry Wagon 2001
Thị trường
Chiến lược kinh doanh và thị trường của Toyota có truyền thống là rất thận trọng, và nó mang lại kết quả là giành được phần lớn nhất trên biểu đồ của những loại khách hàng mua xe, và đây cũng là những người không có niềm đam mê xe cộ. Camry được coi như một loại xe cơm gạo (bread-and-butter vehicle) mà đối tượng chính của nó như đã nói, chiếm phần lớn của những người mua xe. Mặc dù doanh số của Camry không thành công ấn tượng như chiếc xe nổi tiếng nhất thế giới Toyota Corolla, tuy nhiên nó vẫn bán được rất nhiều và luôn đứng trong hàng ngũ các xe thông dụng nhất tại thị trường mầu mỡ Bắc Mỹ.
Tại ba thị trường bán ra chính thức là Úc, Nhật và Bắc Mỹ, chiếc Camry được tính vào dòng sedan cận cao cấp (sub-luxury), đứng sau chiếc Toyota Avalon và Lexus ES330. Thông thường thì Camry không thể thêm trang thiết bị để qua mặt Avalon hoặc ES330, nhưng một chiếc Corolla thì lại có thể trang bị thêm tận răng để vượt qua Camry loại chuẩn.
Toyota Avalon
Tại Châu Âu thì Camry ít được bán, nhưng chiếc Avensis nhỏ hơn (sản xuất tại UK) thì rất phổ thông. Camry bị coi là nhạt nhẽo và ít được ưa chuộng tại đây, đặc biệt là khi Toyota tự cho mình là đối thủ của BMW 5-series thì người ta càng không thấy có điểm gì nổi trội. Sự vắng mặt của mẫu wagon thùng dài trong thế hệ thứ năm tại những thị trường như New Zealand có nghĩa là Camry sedan và Avensis wagon được bán ra song song. Tại thị trường này thì chiếc Avensis Verso đã bị thất bại.
Tính đến năm 2004, Camry đã được sản xuất tại các nhà máy của Toyota tại Úc, Philippines, Thái, Mỹ và Việt Nam. Nó cũng được làm tại các nhà máy không thuộc Toyota tại Malaysia và Taiwan.
Cạnh tranh hiện thời
Đối thủ truyền kiếp của Camry là Honda Accord thì luôn được xem như có dáng thể thao hơn và luôn nhỉnh hơn về một số trang thiết bị. Thống kê tại Bắc Mỹ về Accord và Camry cho thấy doanh số hai chiếc này thường bằng nhau. Nó cho thấy con số đông các đối tượng mà Camry nhắm đến thì không cần quan tâm đến hiệu suất vận hành cho lắm. Những so sánh mới đây nhất đã đẩy Camry đối mặt với các đối thủ như Nissan Altima, Mitsubishi Galant, Mazda 6 và Chevrolet Malibu. Mặc dù Camry không luôn luôn là kẻ chiến thắng rõ ràng, nhưng nó vẫn là một con gà cứng cựa.
Các thế hệ Camry
Cũng có vài tranh cải về cách đặt thế hệ của Camry theo từng thời kỳ. Hầu hết các nguồn đều ghi thế hệ thứ nhất của Camry bắt đầu năm 1983, một số ít thì nói là 1980 bằng đời của chiếc Toyota Celica Camry. Tài liệu sau đây căn cứ vào cá ý kiến thuộc đa số.
Toyota Celica Camry (1980–1982)
Toyota Celica Camry lần đầu tiên được giới thiệu năm 1980 cho thị trường nội địa Nhật. Xe mang hơi hướm của mẫu Carina và phần đầu của Celica.
Thế hệ I (1982–1986)
Camry 1985
Vào năm 1982, Camry trở thành một dòng xe riêng rẽ và được bán ra dưới mẫu sedan hạng trung 4 cửa và 5 cửa. Lượng xuất khẩu rất ít, đa số dành cho thị trường tay lái bên phải (tay lái nghịch). Vào thời điểm này, Camry được xếp trên hai mẫu hạng trung khác của Toyota là Carina và Corona. Một người anh em sinh đôi cũng được giới thiệu lúc đó: Toyota Vista.
Camry chỉ có loại động cơ 4 máy thẳng hàng 2.0 lít, 92hp nhưng chia ra 2 loại hộp số: 5 số tay và 4 số tự động. Đối lập với chiếc Celica Camry dẫn động cầu sau, Toyota Camry là xe dẫn động cầu trước.
Thiết kế của Camry thế hệ I phù hợp với khuynh hướng dạng hộp của những năm đầu 1980. Kích thước và trang bị của xe là những đặc trưng của xe Nhật vào thời đó, xe rẻ tiền, nhỏ nhắn nhưng cứng cáp và cạnh tranh trực tiếp với các đối thủ to lớn của Mỹ.
Thế hệ II (1986–1991)
Camry 1988
Thế hệ thứ hai giới thiệu vào nam 1986, có thêm mẫu wagon nhưng lại bỏ đi mẫu hatchback. Nó vẫn được coi là xe hạng trung vào lúc này. Vào năm 1988, lần đầu tiên có thêm mẫu dẫn động 2 cầu (All-Trac) động cơ V6 2.5L, 153hp. Động cơ V6 này có tính năng trục cam đôi trên nắp máy (DOHC), gần giống như loại 4 xy-lanh 115hp.
Năm 1991, hệ thống chống bó phanh (ABS) xuất hiện trên các mẫu V6, LE và wagon.
Nhà máy tại Kentucky bắt đầu sản xuất Camry vào năm 1988, với ba model của thế hệ II là Camry trơn (chuẩn), Camry DX và Camry LE. Động cơ 2.5L và khung gầm của Camry cũng được dùng cho dòng cao cấp Lexus ES250. Chiếc ES250 là một đặc trưng cho loại Camry hardtop (loại mui cứng không có thanh chống giữa 2 cửa sổ) tại thị trường Nhật.
Vào năm 1991, hệ thống chống bó phanh (ABS) được trang bị cho các mẫu V6, LE và wagon.
Camry Thế hệ II thì đặc biệt rất là phổ thông tại Mỹ và ta có thể thấy chúng trên mọi nẻo đường.